Khả năng Tàu_khu_trục_trực_thăng_lớp_Izumo

Khác với các tàu lớp Hyuga có khả năng hoạt động tác chiến độc lập, việc radar và sonar đa chức năng được đơn giản hóa, trang bị hệ thống vũ khí tự vệ tối thiểu và không có ngư lôi chống tàu ngầm khiến Izumo dễ bị đối phương tấn công hơn, tàu không bao giờ rời cảng một mình. Mỗi lần tiến ra biển, Izumo luôn được hộ tống bởi các tàu khu trục có khả năng phòng không cao như tàu khu trục lớp Kongo, lớp Atago, lớp Maya, lớp Asahi và lớp Akizuki

C4I

Hệ thống C4I hầu hết là phiên bản cập nhật của lớp Hyuga. Hệ thống chỉ huy chiến đấu là loại OYQ-12, đây là một phiên bản bị loại bỏ chức năng điều khiển vũ khí của OYQ-10, tuy nhiên cấu hình cơ bản vẫn như cũ. Hệ thống máy tính điều khiển AN/UYQ-70 được thay thế bằng hệ thống OYX-1 do Nhật tự sản xuất trong nước.

Việc kết nối các hệ thống điện tử trên tàu được thực hiện thông qua hệ thống mạng diện rộng NOYQ-1. Hê thống này kết nối tất cả các thiết bị trên tàu thông qua hệ thống cáp quang tốc độ cao dưới dạng Gigabit Ethernet. Nhờ vậy, khả năng phản ứng và xử lý các tình huống của tàu được nâng lên đáng kể. Hệ thống thông tin liên lạc của tàu ngoài hoạt động trên tần sóng ngắn thông thường (HF), tần số rất cao (VHF) và tần số cực cao (UHF), còn có thể tham gia vào mạng dữ liệu tích hợp (JDN) và Hệ thống dữ liệu chiến thuật Hải quân (NTDS). Được liên kết thông qua hệ thống thông tin liên lạc cấp chiến thuật Linhk14/11/16.

Đối với liên lạc vệ tinh, tàu đươc trang bị hệ thống liên lạc vệ tinh NORA-1C (hoạt động trên băng tần X) dùng để kết nối với vệ tinh SUPERBIRD B2, SUPERBIRD D, NORA-7 cho băng tầng rộng, NORQ-1 cho băng tầng Ku và AN/USC-42 kết nối với với vệ tinh liên lạc của Hải quân Mỹ. Việc liên lạc giữa các trực thăng và tàu mẹ được thực hiện bởi hệ thống liên kết dữ liệu ORQ-1C. Đây là phiên bản cải tiến của ORQ-1B, một phiên bản số hóa của hệ thống ORQ-1 TACLINK thông thường.[7]

  • Phòng chỉ huy tác chiến (CIC) trên tàu JDS Izumo。
  • Hệ thống liên lạc vệ tinh NORA-1C
  • Hệ thống liên kết dữ liệu ORQ-1C
  • Hệ thống điện tử của JS Kaga

Khả năng tác chiến

Như đã đề cập ở trên, hệ thống vũ khí trang bị trên tàu hầu như chỉ giới hạn ở mức độ tự vệ.

Phòng không

Cảm biến chính của tàu Izumo là radar mạng pha 3 tham số (3D) đa chức năng OPS-50, chuyên dùng để định vị phòng không và kiểm soát không lưu. Tuy nhiên, do tàu được trang bị các hệ thống SeaRAM và Phalanx CIWS, cả hai đều có hệ thống điều khiển hỏa lực khép kín và không cần điều khiển hỏa lực bên ngoài, nên chức năng dẫn bắn tên lửa đã bị loại bỏ. OPS-50 hoạt động ở băng tần C (bước sóng từ 7,5 đến 3,75 cm) dùng để theo dõi và giám sát mục tiêu. Bốn bộ anten được lắp quay về mọi hướng, với mặt trước của tháp chỉ huy quay về 0 độ và 270 độ và mặt sau quay về 90 độ và 180 độ. Vì phần tử anten sử dụng chất bán dẫn dựa trên gallium nitride như FCS-3A, nên khoảng cách phát hiện được mở rộng khoảng 1,7 lần so với FCS-3. Ở JDS Kaga, OPS-50 đã được thay thế bằng loại OPS-50A hiện đại hơn. Tàu còn được trang bị radar chuyển hướng, dẫn đường OPS-20E

Hoả lực phòng không tầm gần của tàu là các hệ thống SeaRAM và Phalanx CIWS. Các tàu lớp Izumo ban đầu được trang bị các hệ thống Mk-15 Block 1A. Trong quá trình cải tạo quy mô lớn được thực hiện vào năm 2020, các hệ thống này đã được thay thế bằng phiên bản Block 1B Baseline 2. Sea RAM là một hệ thống 11 ống phóng dùng để phóng tên lửa phòng không RIM-116. Tầm bắn tối đa là 15km, ngắn hơn nhiều so với tên lửa phòng không RIM-162 ESSM được trang bị trên lớp Hyuga (tầm bắn tối đa 30-50km). Tàu khu trục lớp Izumo cũng là lớp tàu đầu tiên của JMSDF được trang bị hệ thống này.[7]

  • Radar mạng pha 3 tham số (3D) đa chức năng OPS-50.
  • SeaRAM (phía trước bên trái) và Phalanx CIWS (phía sau bên phải) ở phía đuôi tàu JDS Kaga
  • Radar chuyển hướng, dẫn đường OPS-20E

Chống hạm/chống ngầm

Radar định vị nhận dạng và theo dõi mục tiêu mặt nước OPS-28F

Trong tác chiến chống ngầm, tàu được trang bị sonar kết hợp chủ/bị động phát hiện và xác định vị trí tàu ngầm OQQ-23 gắn cố định trong quả cầu hình giọt nước ở mũi tàu. Tàu còn được trang bị radar định vị nhận dạng và theo dõi mục tiêu mặt nước OPS-28F.

Các hệ thống tác chiến điện tử của Izumo bao gồm hệ thống tác chiến điện tử NOLQ-3D-1 ESM/ECM và hệ thống mồi bẫy Mk-137 SRBOC. Hệ thống NOLQ-3C được cấu thành bởi hai bộ phận chính là trinh sát điện tử và gây nhiễu điện tử. NOLQ-3D-1 được điều khiển bởi một máy tính tốc độ cao có khả năng xử lý, quản lý hàng nghìn phép tính/giây và được vận hành bằng phương thức tự động hoặc bán tự động. Trong đó, bộ phận trinh sát điện tử sử dụng băng tần hỗ hợp nên có khả năng mở rộng dải trinh sát với độ chính xác lên tới 1 độ và phạm vi bao phủ 360 độ. Còn bộ phận gây nhiễu điện tử được cấu thành bởi 4 annten, mỗi anten có khả năng tác nghiệp một góc 90 độ với tổng cộng 140 dải tần số khác nhau. Hệ thống này có thể cùng một lúc gây nhiễu đối với 80 bộ radar với thời gian phản ứng trước các tình huống cực ngắn.

Hệ thống Mk-137 SRBOC có bán kính tác chiến gây nhiễn là 4 km; công suất gây nhiễu từ 7 - 8 kW; công suất gây nhiễu hồng ngoại từ 3 - 5 kW; độ cao tác chiến là 150m, độ trễ là 3,5 - 0,5 giây; thời gian hình thành khu vực gây nhiễu là 8,5 giây; thời gian hình thành tường hồng ngoại gây nhiễu là 6 giây. Cơ chế hoạt động của Mk-137 đó là phóng ra các quả rocket chứa nhiều lá nhôm để tạo các mục tiêu giả qua đó đánh lừa hệ thống đầu dò mục tiêu trên tên lửa của đối phương, từ đó khiến tên lửa đối phương bắn nhầm mục tiêu.

Ngoài ra, tàu còn có hệ thống phòng thủ ngư lôi OLQ-1. OLQ-1 bao gồm hệ thống gây nhiễu bằng âm thanh FAJ và hệ thống phóng mồi nhử tự hành MOD. Khi hệ thống sonar của tàu cung cấp thông tin đo đạc và phương vị của ngư lôi, căn cứ vào tín hiệu cảnh báo mối đe dọa, hệ thống MOD sẽ phóng mồi bẫy ngư lôi về hướng của mối đe dọa, cùng lúc đó hệ thống FAJ sẽ tạo ra phương thức gây nhiễu tiếng ồn, cách ly sự tiếp xúc giữa ngư lôi và mục tiêu, sau đó MOD lại phóng tiếp một hoặc nhiều mồi bẫy khác, sử dụng tín hiệu hoàn toàn giống với tàu thật, đánh lừa ngư lôi di chuyển ra xa tàu. Sau đó, mồi bẫy âm thanh tự hành sẽ chuyển từ chế độ gây nhiễu sang chế độ mồi nhử, nhử ngư lôi rời xa tàu. Khoảng cách phát tín hiệu tối đa khoảng 1000m, thời gian hoạt động gây nhiễu khoảng 7 phút.[7]

Khả năng vận tải / y tế / tiếp liệu

Ngoài các nhiệm chiến đấu, các tàu lớp Izumo còn được huy động trong các hoạt động gìn giữ hòa bình và cứu trợ thảm họa.[4] Tàu có khả năng vận chuyển 400 lính và 50 xe tải 3,5 tấn (hoặc thiết bị tương đương), nó cũng có thể chứa hệ thống tên lửa đất đối không PAC-3 của Lực lượng Phòng vệ trên không Nhật Bản. Tuy nhiên, tàu không thể chuyên chở các phương tiện hạng nặng như xe tăng.

Izumo cũng có khả năng tiếp nhiên liệu cho các tàu khác trên biển (3.300 kL dầu và nước ngọt cho ba tàu khu trục). Boong 1 của tháp chỉ huy được trang bị tời kéo ... có thể tiếp nhiên liệu trên biển bằng phương pháp dây nhịp.

Dựa trên mô hình hệ thống y tế của tàu tiếp liệu lớp Mashū, trên tàu cũng được trang bị một cơ sở y tế tương đương với một bệnh viện dã chiến cấp sư đoàn hoặc quân đoàn, hoặc bệnh viện đa khoa của một thành phố 250.000 dân, đồng bộ cả nha khoa, chẩn đoán, chuyên gia phẫu thuật và các khả năng y tế, vệ sinh thực phẩm và các khả năng tâm lý học. Một hệ thống điều khiển y học từ xa dựa trên hệ thống vệ tinh cho phép thực hiện các phẫu thuật chuyên ngành phức tạp.

Cơ sơ y tế này bao gồm 20 phòng và 69 giường bệnh, trong đó 7 phòng để chăm sóc đặc biệt. Có hai phòng mổ với đầy đủ phòng chụp X quang và siêu âm số, và nó có thể được gắn với một máy quét CT điều khiển từ xa. Kho thuốc trên tàu có đủ số lượng thuốc cho nhiều loại bệnh khác nhau từ cảm cúm, sốt cho tới các loại kháng sinh liều cao, thuốc giảm đau, thuốc an thần. Đặc biệt là các thuốc giảm đau dạng gây nghiện như Morphin thường có lượng dự trữ rất cao, đề phòng trường hợp các thủy thủ bị thương nặng trong khi giao tranh. Trong trường hợp khẩn cấp, 50 giường bệnh có thể được lắp đặt nhanh chóng ngay trong khoang chứa máy bay trực thăng để tăng cường năng lực của bệnh viện.[7]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Tàu_khu_trục_trực_thăng_lớp_Izumo http://www.asahi.com/ajw/articles/AJ201812060055.h... http://www.janes.com/article/50196/japan-commissio... http://www.navyrecognition.com/index.php?option=co... http://release.nikkei.co.jp/detail.cfm?relID=27823... http://www.mod.go.jp/j/approach/hyouka/seisaku/res... http://www.mod.go.jp/msdf/formal/info/news/201307/... https://www.bloomberg.com/news/articles/2015-03-25... https://edition.cnn.com/2018/12/18/asia/japan-airc... https://www.straitstimes.com/asia/east-asia/japan-... https://www.washingtonpost.com/world/asia_pacific/...